Loa Phường
Trong các Báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế 2022 vừa được USCIRF
công bố, không khác mấy với báo cáo này các năm trước, đều nhấn mạnh, xoáy sâu
vào lên án Việt Nam vi phạm quyền
tự do tôn giáo thể hiện qua việc ban hành Luật tôn giáo và tín ngưỡng, xin
trích:
- “Hiến pháp Việt Nam quy định rằng
công dân “có thể theo bất kỳ tôn giáo nào hoặc không theo tôn giáo nào” và “các
tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật”. Hiến pháp cũng quy định việc tôn trọng
và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy nhiên, nó cho phép chính
quyền hạn chế các quyền con người, bao gồm quyền tự do tôn giáo, vì lý do “quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự và an ninh xã hội, đạo đức xã hội và phúc lợi
của cộng đồng”. Luật Tín ngưỡng và Tôn giáo năm 2018 của Việt Nam có các quy
định tương tự cho phép hạn chế quyền tự do tôn giáo”,
- “luật pháp áp đặt các yêu cầu phức
tạp và nặng nề đối với các nhóm tôn giáo phải đăng ký với chính phủ. Ví dụ,
luật yêu cầu các nhóm tôn giáo phải đăng ký hoạt động tôn giáo, tụ họp tôn giáo
và được chính thức công nhận. Mỗi bước này đòi hỏi một quy trình đăng ký riêng
biệt, yêu cầu các nhóm gửi thông tin sâu rộng về các tổ chức và hoạt động của
họ”…
Chung quy xuyên suốt 2 trang báo cáo
về tự do tôn giáo Việt Nam, dù thừa nhận Luật tín ngưỡng và tôn giáo 2018 có
nhiều tiến bộ, tạo thuận lợi cho sinh hoạt và đăng ký tôn giáo nhưng Uscirf vẫn
xoáy vào lên án Việt Nam dùng luật cản trở quyền tự
do tôn giáo. Thực tế, trên thế giới có phải chỉ có Việt Nam mới dùng luật để
quản lý tôn giáo hay không? Luật Tín ngưỡng
và tôn giáo của Việt Nam có vi phạm pháp luật quốc tế hay không?
Thực tế cho thấy, không thể có quyền tự do tôn
giáo tuyệt đối. Xét về bản chất, tôn giáo là một tổ chức tập hợp những người
tin theo một đối tượng tôn thờ, được sắp xếp theo cơ cấu nhất định. Mọi tổ chức
tồn tại, hoạt động trong xã hội đều phải chịu sự quản lý, giám sát của Nhà
nước, tuân thủ quy định của pháp luật. Do vậy, các tôn giáo phải chịu sự quản
lý của Nhà nước, phải chấp hành quy định của pháp luật. Việc ban hành các văn
bản pháp luật để tiến hành quản lý nhà nước đối với các tôn giáo là nhu cầu tất
yếu, khách quan của mọi quốc gia trên thế giới
Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị quy định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị
giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh,
trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc để bảo vệ quyền và tự do
cơ bản của người khác”.
Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động tôn giáo
cũng phải tuân thủ luật pháp như: Điều 26, Luật của Cộng hòa Pháp về tách Giáo
hội khỏi Nhà nước quy định: “Việc tụ tập để thực hiện các nghi lễ tôn giáo phải
báo cáo và chịu sự kiểm soát của các cơ quan chính quyền có chức năng gìn giữ
trật tự công cộng. Ở những nơi chuyên vào việc thờ tự và thực hành nghi lễ tôn
giáo cấm việc hội họp có tính chất chính trị”. Điều 27 quy định: “Các nghi lễ,
các cuộc rước tôn giáo tiến hành bên ngoài khu vực nhà thờ và việc kéo chuông
phải tuân theo những quy định của chính quyền tỉnh, thành phố”.
Luật pháp Cộng hòa Bỉ quy định trách nhiệm hình
sự đối với những giáo sĩ có hành vi và lời nói xúc phạm tới Chính phủ, luật
pháp, sắc lệnh của nhà vua cũng như đối với các hoạt động của chính quyền.
Ở Cộng hòa Liên bang Đức, giáo sĩ cũng bị truy
cứu trách nhiệm hình sự như công dân khác trong trường hợp vi phạm hiến pháp,
pháp luật. Cũng ở Đức, các giám mục Thiên chúa giáo khi nhậm chức phải tuyên
thệ: “Tôi xin thề và hứa sẽ tôn trọng Chính phủ hợp hiến. Chiểu theo nghĩa vụ
phải quan tâm tới lợi ích của Nhà nước Đức trước bất kỳ sự gì khả dĩ tác hại
tới lợi ích đó”.
Ở Mỹ, hoạt động của các tổ chức tôn giáo được
quản lý theo luật pháp của các bang. Luật của các bang quy định về hoạt động tôn
giáo có những điểm khác nhau về chi tiết, song nhìn chung đều dựa trên yêu cầu
thống nhất trong toàn liên bang như: Việc đăng ký thủ tục bắt buộc đối với các
tổ chức tôn giáo trong toàn liên bang, lệ phí phải nộp cho chính quyền về việc
đăng ký là 15 đô la; các cơ quan chính quyền của bang trực tiếp thi hành việc
giám sát các hoạt động của các tổ chức tôn giáo trên địa bàn hành chính của
bang. Chỉ sau khi được chính quyền xem xét, đồng ý cho phép thành lập thì các
tổ chức tôn giáo mới được phép hoạt động và có tư cách pháp nhân.
Ở Nhật Bản, Luật về các tổ chức tôn giáo có tư
cách pháp nhân quy định rõ: Các cấp chính quyền quản lý các tổ chức tôn giáo là
Bộ Văn hóa, tỉnh, huyện. Các tổ chức tôn giáo đều phải đăng ký ở Bộ Văn hóa và
chỉ sau khi đã được đăng ký mới được hoạt động tại nơi đặt văn phòng của tổ
chức đó.
Không
có bất cứ văn bản pháp luật quốc tế nào không có quy định giới hạn quyền tự do
tôn giáo!
Tuyên ngôn
Toàn thế giới về Quyền con người, 1948 (UDHR) cũng đề cập đến những giới
hạn trong việc thực hiện quyền con người nói chung, trong đó có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo nói riêng, mà bản chất của nó là cho phép các quốc gia thành
viên có thể áp đặt một số điều kiện với việc thực hiện hoặc hưởng thụ một số
quyền con người nhất định, theo đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải
là quyền tuyệt đối, mà là quyền có thể bị giới hạn, cụ thể: “1. Mọi người đều
có những nghĩa vụ đối với cộng đồng, là nơi duy nhất mà ở đó nhân cách của bản
thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ. 2. Khi hưởng thụ các quyền và tự do
của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích
bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người
khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng
và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ. 3. Trong mọi trường hợp, việc thực
hiện các quyền tự do này cũng không được trái với các mục tiêu và nguyên tắc của
Liên hợp quốc”[8].
Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 (ICCPR) tại Điều 18 khoản
3 ghi rõ “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi
pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự công cộng,
sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người
khác”
Bình luận
chung số 22 của Ủy ban Nhân quyền của Liên Hợp quốc chỉ rõ, “Nghiêm
cấm các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng có mục đích hoặc tính chất tuyên truyền
cho chiến tranh hoặc hận thù dân tộc, tôn giáo hay kích động sự phân biệt đối xử
về chủng tộc, sự thù địch hoặc bạo lực. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ sử
dụng pháp luật để ngăn chặn hành động đó” (đoạn 7).
Mổ xẻ, so
sánh những giới hạn và việc kiểm soát hoạt động tín ngưỡng của Việt Nam hoàn
toàn tương thích, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Thực tế, Ở Việt
Nam, 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận với 43 tổ chức tôn giáo, hơn 26,5 triệu
người theo các tôn giáo, chiếm 28% dân số cả nước cùng hàng vạn cơ sở tín ngưỡng,
thờ tự. Các tổ chức tôn giáo được phép thành lập trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng
những người chuyên hoạt động tôn giáo để đáp ứng nhu cầu của tôn giáo. Hiện
nay, cả nước có 63 cơ sở đào tạo tôn giáo gồm Phật giáo, Công giáo, Tin lành,
Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo với gần 2 vạn học viên đăng ký theo học các khóa
đào tạo tôn giáo mỗi năm. Năm 2020 có khoảng 230 cơ
sở thờ tự được xây mới, 308 cơ sở thờ tự được nâng cấp, sửa chữa.Bất
chấp ảnh hưởng dịch bệnh, năm 2020 Nhà nước đã giải quyết trên môi trường mạng
43 thủ tục đăng ký, công nhận tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo, 18 thủ tục hành
chính qua dịch vụ công trực tuyến…
Như vậy, cố
tình gán ghép Việt Nam dùng Luật để hạn chế, vi phạm quyền tự do tôn giáo của
USCIRF thể hiện rõ ý đồ hơn khi ta đọc kỹ 2 trang báo cáo về Việt Nam, trong đó
báo cáo này lên án Việt Nam không thừa nhận một số tà đạo độc hại, chống chính quyền như Pháp Luân
công, Hà Mòn, Dương Văn Mình; dán nhãn những tín đồ bị xử lý về hoạt động lật đổ
chính quyền là bị “đàn áp” vì lý do tín ngưỡng như trường hợp Nguyễn Bắc Truyển
bị xử lý vì tham gia HAEDC mưu đồ lật đổ chế độ thất bại.
Hành xử của
USCIRF không khác mấy với một số tổ chức sử dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền. Luận
điệu mà họ đưa ra là vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm quyền “tự do tôn
giáo” của người dân; đòi tách tôn giáo khỏi sự quản lý của Nhà nước, yêu cầu
chính quyền không kiểm soát, kiểm duyệt các tôn giáo, cho phép tôn giáo được tự
do hoạt động. Họ luôn xuyên tạc “Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt
Nam là tạo ra cơ sở pháp lý để đàn áp, bóp nghẹt tôn giáo”; “là bước thụt lùi về
tự do tôn giáo”….
Bất chấp quan hệ song phương ngày càng được thúc đấy, gắn kết,
một số cơ quan của Mỹ dường như khu khư lấy chiêu bài lợi dụng tôn giáo để chống
phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền. Hành xử thế này bảo sao Việt Nam luôn đề
phòng, cảnh giác với Hoa Kỳ và đồng minh, luôn băn khoăn thiện chí của họ với
Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét