Loa Phường
Hoa
Kỳ năm nào cũng có báo cáo nhân quyền về Việt Nam và những nước mà Hoa Kỳ cho
rằng “độc đảng”, “độc tài”, “vi phạm nhân quyền”. Một trong những nội dung mà
báo cáo nhân quyền năm nào Bộ Ngoại giao Mỹ cũng nhắc tới đó là phê phán điều
kiện vật chất trong các trại giam Việt Nam chưa đáp ứng “tiêu chuẩn”, lượng
thức ăn không đầy đủ, kém chất lượng, tù nhân được thăm thân 1h/1 tháng là quá
ít, các phạm nhân phải làm việc nhưng không được nhận tiền công,
có tù nhân được nhận kinh thánh có tù nhân không
được nhận, rằng Việt Nam không chịu mời “cán bộ Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế địa phương và khu vực” đến thăm trại giam, các cán bộ
quản trại không ngăn chặn được tình trạng bạo lực giữa các tù nhân…. Nhìn chung
là báo cáo của Hoa Kỳ kể lể rất chi tiết, rất đầy đủ “mọi hiện tượng” liên quan
đến nhà tù mà họ “thu thập” được, kể cả trường hợp cá biệt, đơn lẻ, sai phạm
trong giam giữ nhằm góp phần tạo nên hình ảnh Việt Nam không tôn giao nhân quyền
trong các báo cáo nhân quyền hàng năm.
Loa Phường xin dành một loạt các bài
viết nhằm so sánh giữa điều kiện giam giữ của Việt Nam và Hoa Kỳ để thấy, tình
trạng ở đâu đáng sợ, tệ hại hơn, qua đó lý giải vì sao Hoa Kỳ lại chăm chăm lo
cho “nhân quyền” nước khác một cách kỹ càng, tỉ mỉ, chi tiết đến vậy trong khi
đáng lẽ nên cải thiện chính nhà tù nước mình, vì sao chính sách tài khóa hàng
năm của Hoa Kỳ cứ phải dành khoản “đối ngoại” hàng triệu USD lo cho nhân quyền
nước khác mà không lo cho chính người dân mình đang đóng thuế cho Chính phủ Mỹ
làm chuyện bao đồng?
1. Lịch sử giam giữ, tù đày hà khắc của
nước Mỹ
Hình phạt tù đã được
sử dụng ở Anh từ đầu triều đại Tudor (1485-1603). Tuy nhiên, trước thế kỷ 19,
rất hiếm khi các tòa án hình sự ở Bắc Mỹ kết án tù. Giam giữ trở thành một
hình thức trừng phạt phổ biến từ sau cách mạng Mỹ (cuối thế kỷ 18). Mô hình
trại giam đầu tiên được áp dụng như những Trại tế bần mà
nước Anh trước đó đã áp dụng để chữa bệnh lười biếng của những đối tượng nghèo,
lang thang. Dần dần, hệ thống này hình thành như một hệ thống cải huấn người bị
kết án[1].
Tù nhân và nhà tù xuất
hiện tại Bắc Mỹ đồng thời với sự xuất hiện của những người định cư châu
Âu. Trong đoàn thám hiểm của Christopher Columbus có một số phạm nhân được mang theo
để phục dịch. Năm 1570, người Tây Ban Nha đã xây dựng nhà tù đầu tiên. Khi các
quốc gia khác ở châu Âu cạnh tranh với Tây Ban Nha ở
Tân thế giới, họ
cũng mang theo tù nhân. Ước tính một phần tư người di dân Anh đến Bắc Mỹ trong
những năm 1700 là tù nhân, từ đây hình thành hệ thống nhà tù thuộc địa và chế
độ tù nô lệ tại vùng đất này.
Sau cuộc nội chiến 1861-1865,
theo Tu chính án thứ 13 Hiến pháp Hoa Kỳ (1865), chế độ nô lệ bị bãi bỏ, ngoại
trừ trường hợp tội phạm bị tuyên làm nô lệ như một hình phạt. Tuy nhiên, một hệ
thống "cho thuê tù nhân ra ngoài" (hiring out prisoners) đã được
tạo dựng để kế tục chế độ nô lệ truyền thống mà trong đó, sự phân biệt chủng
tộc hết sức nặng nề. Từ năm 1870 đến năm 1910 ở bang Georgia, 88% tù nhân được
thuê là người gốc Phi. Ở bang Alabama, 93% số tù nhân thuê làm thợ mỏ là
người da đen. Ở bang Mississippi, có trang trại tù khổng lồ tương tự như
đồn điền nô lệ cũ tồn tại cho đến những năm 70 của thế kỷ 20[2].
Chính sách khai thác
tù nhân cho thuê rất tàn nhẫn, sinh mạng của người tù hầu như không được đếm
xỉa đến, vì vậy, số phạm nhân chết rất lớn. Theo những con số tổng kết, tỷ lệ
tử vong của các tù nhân cho thuê tại các công ty đường sắt ở Nam Carolina giữa
các năm 1877 và 1879 lên đến 45%, ở Arkansas 25% và ở Mississippi là 16%[3].
Chính sự tàn ác trên
đã làm cho chế độ lao động nhà tù gắn liền với lịch sử đấu tranh của tù nhân và
tầng lớp lao động. Đầu những năm 1800, cùng với việc hàng trăm tù nhân lao động
cho đến chết, các cuộc đấu tranh phản đối của những người lao động bị mất việc
làm do nhà thầu thuê tù liên tiếp nổ ra. Một trong các vụ đụng độ nổi tiếng
nhất là cuộc nổi dậy tại mỏ than Creek năm 1891, các mỏ than sắt và đường sắt
đã bị khóa, các thợ mỏ đã xông vào giải thoát 400 tù nhân và đốt nhà tù. Hệ
thống nhà tù cho thuê đã bị giải tán ở Tennessee ngay sau đó, nhưng vẫn còn ở
nhiều tiểu bang. Cho đến khi phong trào tiếp tục dâng cao với sự lãnh đạo của
các tổ chức công đoàn trong những năm 1930. Kết quả là Quốc hội phải thông qua
Luật Ashurst-Sumners năm 1935, theo đó, việc vận chuyển hàng hóa nhà tù qua các
bang bị coi là bất hợp pháp. Tuy nhiên, trải qua thời gian khá dài, đến nhiệm
kỳ Tổng thống Jimmy Carter, Quốc hội đã thông qua Đạo luật cải cách hệ thống tư
pháp (năm 1979), trong đó có điều khoản miễn trừ cho bảy dự án thí điểm
"tăng cường công nghiệp tù” (Prison Industry Enhancement). Kể từ đó, đã có
50 hệ thống nhà tù của các bang được cấp miễn trừ, đây là tiền đề thúc đẩy
ngành công nghiệp tù Hoa Kỳ phát triển không ngừng[4].
[1]History of United States prison
systems http://en.wikipedia.org/wiki/History_of_United_States_prison_systems
[2] Vicky Pelaze, The Prison Industry
in the United States: Big Business or a New Form of Slavery? (http://www.globalresearch.ca/the-prison-industry-in-the-united-states-big-business-or-a-new-form-of-slavery/8289).
[3] Stephen Hartnett, Prison Labor,
Slavery & Capitalism In Historical Perspective
(http://www.historyisaweapon.com/defcon1/hisprislacap.html).
[4] Alan Whyte and Jamie Baker, Prison
labor on the rise in US (http://www.wsws.org/en/articles/2000/05/pris-m08.html)
Người xưa đã có câu : "Chân mình dính đất mê mê lại đi cầm đuốc rê soi chân người", câu châm ngôn này xuất xứ Phương Đông nhưng được các nước Phương Tây, mà đặc biệt là Mỹ áp dụng thành thạo nhất; Mặc dù mình làm chả ra cái chó gì nhưng luôn lớn tiếng chê bai, tố cáo các dân tộc khác, đất nước khác không cùng phe với mình nào là mất dân chủ, nhân quyền, đàn áp ...để hòng nô dịch trên toàn thế giới. Các Dân tộc bị áp bức, bị khủng bố, bị vu khống hãy lột mặt nạ bọn giả hiệu dân chủ, nhân quyền đó đi các vị!.
Trả lờiXóa